Câu chuyện Phật giáo




1/ Chú đại là gì? Ý nghĩa và việc trì chú đại bi:

Giải thích về Chú Đại Bi.

Trong tất cả Kinh điển và Mật Chú của Phật giáo đều chia làm hai phần: Phần hiển (Phần Kinh) và Phần mật (phần câu Chú).

Phần hiển: Là hiển bày ra ý nghĩa và chân lý trong Kinh để hành giả tụng niệm, hoặc nghiên cứu theo đó áp dụng tu tập, thì gọi là: “Tụng Kinh minh Phật chi lý,” để hiểu biết công năng của câu kinh và câu chú gọi là phần hiển. Ví dụ: Kinh Bát Nhã phần hiển từ “Quán tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã cho đến câu…..Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết”: phần mật là phần câu chú: “Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề. Tát bà ha”
Kinh Lăng Nghiêm: phần tựa là từ “Diệu Trạm Tổng….cho đến hết lời tựa là phần hiển còn phần mật là 5 đệ Lăng Nghiêm

Phần hiển: Chú Đại Bi “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi” câu Kinh này là phần hiển giải thích công năng và diệu dụng của 84 câu Chú ở sau, để giúp hành giả hiểu mà hành trì cho đúng mới có hiệu nghiệm.

Còn phần mật của Chú Đại Bi là phần “câu Chú” từ câu chú “tâm đà la ni cho đến câu 84. Ta bà ha” phần câu Chú là phần ẩn nghĩa chỉ là phạn ngữ chỉ có chư Phật mới thấu hiểu còn hàng phàm phu không hiểu ý nghĩa, chỉ biết công năng và lợi ích để hành trì.

Giải thích phần hiển: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi”

Câu Kinh này là phần hiển muốn nói về Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Phật Chuẩn Đề có nghìn tay, nghìn mắt, trong mỗi tay có một con mắt và mỗi tay cầm mỗi khí cụ khác nhau. Vì thế trong Phát Bồ Đề Tâm Luận của Bồ tát Thiên thân nói rằng: “Bồ tát phát tâm lấy lòng từ bi làm đầu. Lòng đại từ của bồ tát vô lượng vô biên nên sự phát tâm cũng vô lượng vô biên mênh mông như chúng sanh giới. Như hư không giới, không chỗ nào là không cùng khắp, sự phát tâm của Bồ Tát cũng như thế, vô lượng vô biên không có cùng tận” [1]

Trong Kinh Duy Ma Cật đức Phật dạy rằng: “Người có trí không nên so sánh với các hàng Bồ Tát. Biển sâu còn có thể dò được, chớ thiền định, trí tuệ, tổng trì, biện tài, tất cả công đức của Bồ Tát không thể đo lường được” [2]

Như vậy mỗi bàn tay là biểu trưng cho công hạnh của Bồ tát vào đời độ sinh với lòng Đại từ đại bi. Bởi vì chúng sinh căn cơ không giống nhau, cho nên Ngài Quan Thế Âm hóa hiện ra nghìn tay (tức nghìn muôn hạnh) phương tiện để độ sinh viên mãn, Bồ Tát có tâm đại từ đại bi nhưng cần phải có đại trí tuệ, vì vậy mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, con mắt là biểu trưng cho trí truệ, một nghìn con mắt biểu trưng cho đại trí tuệ

Nếu hành giả thực hành con đường Bồ Tát hạnh vào đời độ sinh, chỉ có từ bi mà không có trí tuệ, khi gặp chướng duyên dễ bất thối tâm bồ đề, và sự việc hoằng Pháp độ sinh sẽ gặp trở ngại

Ví dụ: Khi chúng ta thực hành Bồ Tát đạo vào đời độ sinh thấy một người nghiện rượu, nghiện thuốc,..không có tiền mua uống nằm than thở kêu rên. Bấy giờ chúng ta động lòng từ bi thương xót lấy tiền ra để bố thí, để giúp họ vượt qua cơn nghiện. Như vậy, chúng ta có từ bi mà thiếu trí tuệ, chúng ta đã giúp những người ấy, vô tình lại tạo thêm khổ đau vì rượu là chất hại người, tai nạn làm mất hạnh phúc gia đình, rượu là nguyên nhân làm mất đi hạt giống trí tuệ, vì thế trong giới thứ năm Sa Di giới cấm uống rượu, đức Phật đã dạy, thà uống nước đồng sôi mà chết còn hơn uống ly rượu. Bởi vì chúng ta uống nước đồng sôi mà chết còn giữ được hạt giống trí tuệ, còn chúng ta uống rượu làm mất đi trí tuệ

Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo múc đích cứu độ chúng sinh, nhưng ngược lại gây hại đau khổ thêm cho chúng sinh và chúng ta lại vi phạm tinh thần Bồ Tát giới, chẳng những tự mình không uống rượu còn cấm cấm bán rượu: “Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội.” [3]

Như vậy chúng ta hành Bồ Tát đạo vì lòng từ bi cần phải có trí tuệ thì chúng ta không có gặp chướng ngại (vô = không, ngại = chướng ngại)

“Bồ tát phát tâm bằng cách thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, lập chí cầu chánh pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ chịu nhẫn nhục được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, ưa thích pháp đại thừa, mong cầu được trí huệ Phật. Nếu ai có đầy đủ mười điều nói trên mới có thể phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.” [4]

Bồ Tát phát tâm tu tập Vô thượng Bồ đề lại cần có bốn duyên;

“Một là suy nghĩ đến chư Phật;
Hai là quán các tội lỗi của tự thân;
Ba là thương xót chúng sanh;
Bốn là cầu quả tối thắng, tức quả Phật.”
Nhờ có bốn nhân duyên kia mà tâm bồ đề thêm kiên cố [5]

Trong Đại Trí Độ Luận có nói “Bậc Bồ Tát luôn có tâm dõng mãnh bất thoái ở giữa chúng sinh khởi đại bi tâm thành lập Đại thừa, thực hành đại đạo, thuyết Pháp phá trừ đại tà kiến, đại phiền não, đại ái mạn, đại ngã tâm cho mình và hết thảy chúng sinh” Đó là tâm “Đại Bi” của Bồ Tát thật bao la rộng lớn hạnh nguyện của Ngài vô cùng tận. “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”

Vì thế trong Phổ Môn phẩm 25 trong Kinh Pháp Hoa:

Phật mới bảo:“Hỡi này nam tử
Có chúng sanh quốc độ xa gần
Muốn cầu thân Phật độ dân
Quán Âm liền hiện Phật thân hộ trì
Cõi muốn được Bích Chi hóa độ
Hiện Bích Chi vì đó giảng Kinh …
… Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ Tát,
Thành tựu phần công đức oai linh
Thần thông hiện các thân hình
Dạo cùng khắp cõi độ sinh thoát nàn”
Bồ Tát hành Bồ tát đạo dùng vô số phương tiện quyền xảo để phù hợp căn cơ của mỗi chúng sinh hóa độ (thiên thủ = nghìn tay chỉ cho phương tiện, hay công hạnh) còn nghìn mắt là chỉ cho Trí tuệ thậm thâm của Bồ Tát để thấu hiểu hết thảy các Pháp, độ tận hết thảy chúng sinh. Nếu còn một chúng sinh đau khổ, Bồ Tát thệ nguyện không thành Vô thượng Bồ đề như Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã phát nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” Có nghĩa là Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã bạch Phật rằng: “con ở trong cõi đời xấu ác này độ sanh, những vẫn cảm thấy an lạc như đang an trú trong cảnh giới Niết Bàn.”

Phẩm chất của Bồ Tát:

Tinh thần là Trí tuệ (nghìn mắt),

Sức mạnh là Thiền định,

Sắc thái Đại từ bi (nghìn tay)

Bồ Tát có ba sắc thái này thì hành Bồ Tát đạo đạt đến chỗ “vô ngại”

Khi vị Bồ Tát có đại bi thì cũng đạt được đại trí tuệ (nghìn mắt nằm trong nghìn cánh tay.) Trí tuệ và từ bi là hai diệu tánh của Bồ Tát Quan Thế Âm để độ sanh. Khi Ngài có đầy đủ hai đức Đại bi, và Đại trí thì trên con đường độ sinh tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ viên mãn (vô ngại).

“Tự tại tiêu dao suốt tháng ngày,
Tùy duyên phóng khoáng cõi trần ai,
Rửa sạch lòng trần đầy nhiễm uế
Cuộc đời chi sá bận tâm đâu”
Đó là ý nghĩa: “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”

VÒNG TAY TRÌ CHÚ ĐẠI BI



Vòng tay chú đại bi 15li - Giá: 75K/chiếc

http://chudaibiphatday.blogspot.com/2015/12/chu-ai-bi-y-nghia-tri-niem-chu-ai-bi.html

2/ Om mani padme hum

Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] thần chú và những điều linh ứng

1/ Sức mạnh của việc trì tụng chú Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng]



Trì tụng minh chú Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu quảng đại vô cùng.

Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà. Có thể nào chuyển thân miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh. Chuyển hóa bằng cách nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp.

MANI [ma ni], nghĩa là ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện chúng sinh.

PADME [bát mê], nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là trí tuệ chứng tánh Không.

Trạng thái thanh tịnh có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật [Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi.

Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Đức Di Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận (Uttaratantra) rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm.

Chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha - Như lai tạng), đó là điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà.
(Trích từ tạp chí Phật giáo)

2/ Vòng tay bình an trì tụng cú  Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng]



3/ TRÀNG HẠT PHẬT GIÁO :

  Ý  nghiã số hạt trong phật giáo 

1/ Chuỗi 108 hạt là biểu thị cho cầu chứng 108 pháp Tam Muội mà đoạn trừ 108 phiền não.

2/ Chuỗi 54 hạt là biểu thị cho 54 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Tín, Thập Trú, Thâp Hạnh. Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Tứ Thiện Căn Nhân Địa.

3/ Chuỗi 42 hạt là biểu thị cho 42 cấp vị quá trình tu hành của Bồ Tát, tức là Thập Trú, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác, Diêu Giác.

4/ Chuỗi 27 hạt là biểu thị cho 27 cấp vị của Tiểu Thừa tu hành Tứ Hướng Quả, tức là 18 bậc Hữu Học của Tứ Hướng Tam Quả trước, với 9 bậc Vô Học của Đệ Tứ Quả A La Hán.

5/ Chuỗi 21 hạt là biểu thị cho 21 vị, tức là Thập Địa, Thập Ba La Mật và quả vị Phật.

6/ Chuỗi 14 hạt là biểu thị cho 14 Pháp Vô Úy của Bồ Tát Quán Thế Âm.

7/ Chuỗi 1.080 hạt là biểu thị cho 10 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều có 108, cho nên cộng thành 1.080.
huỗi đeo tay, vật trang sức quá quen thuộc và phổ biến của nhiều bạn trẻ. Thế nhưng, đằng sau nét đẹp hình thức bên ngoài dường như vẫn có mối liên hệ nào đó đến yếu tố tâm linh khi có khá nhiều bạn trẻ đã tìm và chọn cho mình những xâu chuỗi hạt Phật giáo. Một "mốt" thời trang mới, hay là một điểm tựa tinh thần?

http://vongtayphatphap20013.blogspot.com/

Leave a Comment